Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 21 – Kết nối tri thức với cuộc sống

Câu 1 trang 21

Thảo luận về các đặc điểm của truyền thuyết và hoàn thiện theo bảng mẫu sau:

STT

Các yếu tố

Đặc điểm

1Chủ đề 
2Nhân vật 
3Cốt truyện 
4Lời kể 
5Yếu tố kì ảo 

Lời giải

STT

Các yếu tố

Đặc điểm

1Chủ đềNhững vấn đề lịch sử, có ý nghĩa trọng đại, to lớn
2Nhân vậtDựa theo các nhân vật lịch sử. Có sự kết hợp giữa các nét đời thường, thế tục với các nét phi thường kì ảo
3Cốt truyệnĐơn giản, tình tiết ít, không cao trào, không biến động
4Lời kểLời kể chưa có giá trị nghệ thuật cao
5Yếu tố kì ảoCác yếu tố tưởng tượng, hư cấu (con vật kì ảo, động vật kì ảo) thường được dùng để nói lên nguyện vọng, ước mơ, ý nguyện của nhân dân
Câu 2 trang 21

Sưu tầm một số bản kể của các truyền thuyết đã học. So sánh sự giống và khác nhau (sự kiện, chi tiết) giữa các bản kể.

Lời giải 

Em tìm một số bản kể của truyền thuyết Thánh GióngSơn Tinh Thủy Tinh và so sánh bản kể đó với bản đã được học về: sự kiện, chi tiết được kể.

Câu 3 trang 21

Tìm hiểu, giới thiệu một tác phẩm thơ hoặc vở kịch thể hiện nội dung truyện Thánh Gióng và nội dụng truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh.

Lời giải

Một số tác phẩm thơ thể hiện nội dung truyện Thánh Gióng và nội dụng truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh:

– Tác phẩm thể hiện nội dung truyện Thánh Gióng:

                                   Ngẫm về Thánh Gióng

                                                         (Võ Xuân Tửu)

Thánh Gióng

Ăn cơm cà của dân mà lớn

Áo giáp dân cho che chở thân mình

Cưỡi ngựa sắt rèn từ con dao, cái cuốc

Không có dân thì chỉ là cậu bé mà thôi.

Thánh Gióng

Thắng giặc Ân rồi trở về trời

Để đất nước cho nhân dân làm lụng

Không ở lại kể lể công lao và độc quyền lãnh đạo

Không thông lưng với kẻ thù để giữ cái ngai.

Thánh Gióng

Ông đánh giặc vì dân chứ không phải vì mình

Nên không ghi độc quyền cho mình vào giáp cốt

Và ruộng của dân cứ để dân cày

Không gom thành của chung rồi chia nhau hưởng lợi.

*

Thánh Gióng

Ông về trời đã mấy ngàn năm

Mà hồn thiêng trở thành bất tử

Tre đằng ngà như còn bốc lửa

Dân vẫn trồng gìn giữ nước non.

– Tác phẩm thể hiện nội dung truyện Sơn Tinh Thủy Tinh:

                                    Sơn Tinh Thủy Tinh

                                               (Nguyễn Nhược Pháp)

Ngày xưa, khi rừng mây u ám

Sông núi còn vang um tiếng thần,

Con vua Hùng Vương thứ mười tám,

Mỵ Nương, xinh như tiên trên trần.

Tóc xanh viền má hây hây đỏ,

Miệng nàng hé thắm như san hô,

Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:

Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ.

Hùng Vương thường nhìn con yêu quá,

Chắp tay ngẩng lên giời tạ ân;

Rồi cười bảo xứng ngôi phò mã,

Trừ có ai ngang vì thần nhân.

Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!

Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương,

Không quản rừng cao, sông cách trở,

Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.

 

Sơn Tinh có một mắt ở trán,

Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.

Một thần phi bạch hổ trên cạn,

Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.

Hai thần bên cửa thành thi lễ,

Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.

Nhưng có một nàng mà hai rể,

Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều!

Thuỷ Tinh khoe thần có phép lạ,

Dứt lời, tay hất chòm râu xanh,

Bắt quyết hò mây to nước cả,

Dậm chân rung khắp làng gần quanh.

Ào ào mưa đổ xuống như thác,

Cây xiêu, cầu gẫy, nước hò reo,

Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc,

Bò, lợn, và cột nhà trôi theo.

Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.

Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo,

Vung tay niệm chú. Núi từng dải,

Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò

Chạy mưa. Vua tuỳ con kén chọn.

Mỵ Nương khép nép như cành hoa:

“Con đây phận đào tơ bé mọn,

Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha!”

Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước,

Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,

Lễ vật thần nào mang đến trước,

Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.

II

Bình minh má ửng đào phơn phớt,

Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.

Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,

Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.

Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,

Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.

Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,

Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.

 

Rừng xanh thả mây đào man mác,

Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu

Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,

Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.

Theo sau năm chục con voi xám

Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,

Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,

Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.

Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,

Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.

Thần suốt đêm sao dài không ngủ,

Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.

 

Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,

Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.

Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,

Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.

Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,

Thương người, thương cảnh xót lòng đau.

Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,

Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu!”

Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,

Hùng Vương mơ, vịn tay bờ thành.

Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,

Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh…

 

Thoảng gió vù vù như gió bể,

Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.

Yên gấm tung dài bay đỏ choé,

Mình khoác bào xanh da giời quang.

Theo sau cua đỏ và tôm cá,

Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,

Khập khiễng bò lê trên đất lạ,

Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.

Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,

Chân trời còn phảng bóng người yêu,

Thuỷ Tinh thúc rồng đau kêu rú,

Vừ uất vì thương, vừa bởi kiêu.

Co hết gân, nghiến răng, thần quát:

“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”

Tức thời nước sủi reo như thác,

Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa.

III

Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,

Áo bo phơ phất nụ cười bay.

(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)

Thần trông kiệu nhỏ, hồn thêm say.

Choàng nghe sóng vỗ, reo như sấm,

Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.

Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,

Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.

Sóng cả gầm reo lăn như chớp,

Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.

Cá voi quác mồm to muốn đớp,

Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.

Càng cua lởm chởm giơ như mác;

Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.

Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc

Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.

Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.

Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,

Đạp long đất núi, gầm xông xáo,

Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.

Mây đen hăm hở bay mù mịt,

Sấm ran, sét động nổ loè xanh.

Tôm cá xưa nay im thin thít,

Mở quác mồm to kêu thất thanh.

Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,

Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.

(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,

Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”

 

Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,

Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.

Trần gian đâu có người dai thế,

Cũng bởi thần yêu nên khác thường!

Câu 4 trang 21

Theo em, vì sao hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông thường được đặt tên là Hội khoẻ Phù Đổng?

Lời giải

Hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông thường được đặt tên là Hội khoẻ Phù Đổng vì:

– Hội thi lấy tích từ Thánh Gióng – người làng Phù Đổng. Thánh Gióng vừa có công với đất nước, vừa thể hiện cho sức khỏe, sức trẻ.

– Đây là hội thi thể thao dành cho lứa tuổi thiếu niên, học sinh – lứa tuổi của Gióng, trong thời đại mới.

– Đặt tên là Hội khỏe Phù Đổng, vừa thể hiện lòng biết ơn, “uống nước nhớ nguồn”. Vừa khích lệ tinh thần luyện tập thể thao, rèn luyện sức khỏe của thanh thiếu niên. Để mai sau có thể giúp cho nước nhà,…